Tên lửa Asahi (lớp tàu khu trục)

Hệ thống vũ khí – vẫn theo truyền thống, tàu được trang bị hệ thống phóng thẳng đứng 32 ống phóng Mk-41 mod 29 dùng để phóng tên lửa hải đối không tầm gần RIM 162 ESSM và tên lửa chống ngầm Type-07 VL ASROC. 32 ống phóng được chia làm 4 cụm, mỗi cụm 8 ống phóng hình hộp. Tên lửa sẽ bắn theo nguyên tắc "phóng nóng" (kiểu phóng nóng nghĩa là động cơ tên lửa được kích hoạt ngay khi trong ống phóng). Có thể không cần phải để ý quá nhiều đến số lượng. Cũng như các tàu hiện đại khác, Asahi sẽ không mang theo đủ số lượng vũ khí theo thiết kế để tiết kiệm phương tiện trong thời bình. Khi cần thiết, số lượng các tổ hợp phóng và các loại vũ khí khác trên tàu chắc chắn sẽ tăng lên.

Ý nghĩa của việc xuất hiện các tàu lớp Asahi là điều không cần phải bàn cãi. Một trong những yêu cầu quan trọng của Học thuyết quân sự Nhật Bản là thiết lập hệ thống phòng thủ theo tuyến (phòng không/chống ngầm) cho các khu vực cơ động tác chiến của những tàu đang thực hiện nhiệm vụ phòng chống tên lửa. Các lãnh đạo của JMSDF hiểu rất rõ mối đe dọa cả từ các tên lửa bay thấp lẫn các tàu ngầm hiện đại. Chính vì thế mà song song với việc đóng các tàu khu trục với nhiều khả năng phòng thủ hiện đại, Nhật bản còn đóng các tàu khu trục mang máy bay trực thăng để có thể cơ động các phi đội máy bay trực thăng chống ngầm. Trên thực tế ít người biết được rằng trong lĩnh vực chống ngầm, JMSDF đã chiếm vị trí hàng đầu trên thế giới từ cách đây rất lâu, và JMSDF cũng đã đuổi kịp Hải quân Hoa Kỳ trong nhiều lĩnh vực khác. Đến hôm nay, trong biên chế của JMSDF đã có 30 tàu chiến hoạt động trên các đại dương mang vũ khí tên lửa. Và dù có vẻ như Nhật Bản sở hữu nhiều kiểu tàu khu trục khác nhau, nhưng tất cả các tổ hợp tác chiến, hệ thống, thiết bị máy móc đều đã được quy chuẩn hóa.

Lực lượng tàu mặt nước của Lực lượng Phòng vệ Biển Nhật Bản chỉ thực hiện chức năng phòng thủ thuần túy. Mặc dù có một khối lượng nhất định các tên lửa chống hạm Type 90 SSM-1B do Nhật tự sản xuất, các tàu khu trục Nhật không mang vũ khí tấn công – ví dụ như các tên lửa chống hạm tầm xa. Đó là do điều 09 trong Hiến pháp Nhật Bản cấm chế tạo các hệ thống tương tự như vậy. Thêm nữa, còn có một nguyên tắc cũng đang được áp dụng – theo đó thì nhiệm vụ tấn công là "đặc quyền" của tàu ngầm và không quân.[1][2][3]

Tên lửa chống hạm Type 90 SSM-1B

Tên lửa chống hạm SSM-1B Type 90 được MHI phát triển vào năm 1988 và được đưa vào trang bị năm 1992. Type 90 là phiên bản trên hạm của hệ thống phòng thủ bờ biển Type-88. Type 90 có thiết kế khí động học pha trộn giữa tên lửa chống hạm RGM-84 Harpoon của Mỹ và Exocet của Pháp. Tên lửa có 4 vây ổn định lớn hình tam giác ở gần giữa thân hơi xích ra phía sau (sải cánh này lớn hơn so với Harpoon và Exocet) cùng 4 vây lái nhỏ hình tam giác ở đuôi tên lửa.

Type 90 có chiều dài 5,1m, đường kính 0,35m, sải cánh 1,19m, trọng lượng phóng 660 kg. Tên lửa có tầm bắn 200 km mang theo đầu đạn nặng 225 kg, tốc độ hành trình của tên lửa khoảng 1.150 km/h.

Khi tác chiến, tên lửa được đưa ra khỏi ống phóng bằng một động cơ tăng cường nhiên liệu rắn. Sau khi động cơ tăng cường cháy hết, động cơ tuabin phản lực Mitsubishi TJM-2 sẽ được kích hoạt để đưa tên lửa hành trình đến mục tiêu. Để có độ linh hoạt cao và tăng khả năng sống sót cho tên lửa hệ thống đẩy vectơ đã được tích hợp vào.

Tên lửa được dẫn hướng kết hợp quán tính ở giai đoạn đầu và giai đoạn giữa, giai đoạn cuối tên lửa sử dụng radar chủ động để tìm và xác định mục tiêu. Nếu không tìm thấy mục tiêu trong một khoảng thời gian tên lửa sẽ tự hủy hay nhận lệnh tự hủy từ bên ngoài. Type-90 có thể bay lướt mặt biển ở độ cao cực thấp và có khả năng bay vòng qua vật cản để đến vị trí mục tiêu. Khi bay ở giai đoạn kiểm tra cảnh giới, nó bay cách mặt biển 15m, ở giai đoạn cuối khi tiếp cận mục tiêu, nó chỉ cách mặt biển 2-3m, việc bay quá thấp như vậy hoàn toàn ‘làm mù" hệ thống radar cảnh giới của đối phương.

Đầu nổ của đầu đạn Type 90 là loại "bán xuyên giáp". Trước tiên, dựa vào năng lượng vận động khi bay, đầu đạn có thể xuyên thủng mạn tàu đối phương, ngòi đầu nổ tên lửa có thể xuyên thủng mạn tàu địch, sau mấy giây xuyên vào trong tàu, ngòi đầu nổ tên lửa lại dẫn nổ, từ đó làm nổ tung đầu đạn có chứa lượng thuốc nổ cực mạnh ngay trong thân tàu, cộng với lượng chất đốt vẫn chưa cháy hết của tên lửa cùng tung ra theo tiến nổ, khiến cả khoang tàu bốc cháy, làm tàu địch bị phá hủy nặng nề. Đường kính lỗ đạn phá có thể rộng đến 10m. Loại tên lửa này có thể hoạt động trọng mọi điều kiện thời tiết và có khả năng chống nhiễu cao, nếu nó thấy bị nhiễu thì hệ thống điện tử sẽ thực hiện các bước chống nhiễu và nếu thấy không hiệu quả nó sẽ chuyển chế độ ra đa từ chủ động sang bị động dò nguồn gây nhiễu. Trong chế độ này nó sẽ ưu tiên diệt nguồn gây nhiễu trước để các tên lửa sau có thể dò ra mục tiêu cần diệt. Đầu tự dẫn radar kiểu chủ động có thể tự điều chỉnh đường ngắm trúng vào mục tiêu trong mặt phẳng góc + 30o, dẫn tên lửa vào chỗ tập trung mạnh nhất sóng phản xạ từ vỏ tàu mục tiêu về, thường tạo nên "tâm" bề mặt phản xạ của tàu.

Tên lửa hải đối không RIM-162 ESSM

Tên lửa hải đối không RIM-162 ESSM được Tập đoàn Raytheon (Mỹ) hợp tác cùng 10 nước châu Âu phát triển dựa trên cơ sở tên lửa hải đối không RIM-7 Sea Sparrow từ cuối những năm 1990. RIM-162 là hệ thống tên lửa phòng không tầm ngắn - tầm trung tác chiến đa mục tiêu, trong mọi điều kiện thời tiết, được thiết kế để tham gia các nhiệm vụ phòng không trên hạm, tiêu diệt máy bay chiến đấu, trực thăng và các phương tiện bay không người lái của đối phương. Ngoài ra, một đặc điểm quan trọng của RIM-162 là hệ thống này có khả năng phòng thủ rất cao khi hoạt động trong đội hình tác chiến của một hạm đội. Tất cả các mối đe dọa như tên lửa chống hạm, tên lửa hành trình, bom thông minh... đều là mục tiêu đánh chặn của RIM-162.

Tên lửa RIM-162 có kết cấu khá gọn và bao gồm 4 bộ phận: đầu trên là đầu dò radar chủ động xung Doppler với chóp nhọn bảo vệ ở đầu hoạt động trên dải tầng 10 GHz đến 20 GHz; bộ phận thứ hai là đầu đạn nổ phân mảnh (HE) 39 kg với ngòi nổ vô tuyến cận tiếp xúc; bộ phận thứ ba là động cơ nguyên liệu rắn Mk-134 mod 0 giúp RIM-162 có thể đạt vận tốc lên đến Mach 4; bộ phận cuối cùng là đuôi tên lửa dùng để giữ cho tên lửa bay ổn định, phần trên của đuôi được lắp đặt 4 bốn cánh điều hướng có thể tháo lắp và 4 cánh ổn định được lắp ở gần giữa thân. Thiết kế này được giới thiệu là giúp kiểm soát tên lửa tốt hơn trong điều kiện tốc độ cao. RIM-162 có có khối lượng 280 kg, chiều dài 3,66 m; đường kính 0,252 m; tầm bắn 20 km với mục tiêu là tên lửa hành trình đối hạm bay thấp và lên đến 50 km với mục tiêu cỡ lớn như máy bay chiến đấu, tầm cao tối đa là 9 km, tốc độ bắn giữa hai loạt cách nhau là 2 giây.

Nhận diện mục tiêu sẽ được nạp vào tên lửa trước khi phóng, với dữ liệu nhận dạng có thể được cung cấp bởi radar hoặc các hệ thống quan sát quang học. Sau khi được phóng thẳng đứng, RIM-162 được dẫn bằng quán tính độc lập giai đoạn đầu theo thông tin được cung cấp trước đó, ở giai đoạn 2 tên lửa liên tục cập nhật thông tin dữ liệu mục tiêu từ tàu phóng qua kênh liên kết để hiệu chỉnh đường bay và trong giai đoạn cuối nó sẽ kích hoạt radar chủ động để xác định mục tiêu (phương thức "bắn và quên"). Hệ thống điện tử sẽ điều chỉnh nhảy tần số của radar nếu thấy có hiện tượng bị nhiễu và nếu không tìm thấy mục tiêu trong một khoảng thời gian tên lửa sẽ tự hủy hay nhận lệnh tự hủy từ bên ngoài. Việc sử dụng đầu nổ phân mảnh có định hướng giúp điều chỉnh hướng nổ của đầu đạn dựa theo vị trí của mục tiêu trong radar với các tính toán hướng di chuyển của mục tiêu và sẽ phát nổ khi tiến lại gần trong một khoảng nhất định.

Tên lửa chống ngầm Type-07 VL-ASROC

Để chống ngầm, Asahi mang theo tên lửa chống ngầm Type 07 VL ASROC. Type 07 VL-ASROC là tên lửa chống ngầm nội địa do Viện Nhiên cứu và Phát triển kỹ thuật Nhật Bản (TRDI) tự sản xuất trong nước. Type 07 được nghiên cứu phát triển vào năm 1999 và được chính thức chấp nhận đưa vào trang bị cuối năm 2007. Cấu tạo của Type 07 tương tự họ tên lửa chống ngầm RUM-139 của Mỹ.  Nó gồm hai tầng động cơ phản lực nhiên liệu rắn, động cơ tầng thứ nhất là động cơ tăng tốc lấy độ cao, động cơ tầng thứ hai là động cơ hành trình nhiên liệu rắn.

Type 07 VL ASROC có chiều dài 6,5m, đường kính thân 0,45m, trọng lượng 1284 kg và đạt tầm bắn 30 km (tương đương 18 dặm). Tên lửa mang một quả ngư lôi chống ngầm hạng nhẹ Type 97 hoặc Type 12.

Khi có thông tin phát hiện tọa độ khu vực hoạt động của tàu ngầm đối phương từ hệ thống radar, các thông tin, dữ liệu về tọa độ mục tiêu, quỹ đạo đường đạn sẽ được truyền tải đến hệ thống máy tính điều khiển của tàu. Từ bàn điều khiển, các binh sĩ sẽ tiến hành triển khai các hoạt động chuẩn bị tên lửa, nạp dữ liệu mục tiêu vào bộ nhớ máy tính tên lửa và phóng tên lửa. Hệ thống dẫn đường quán tính được sử dụng khi bay tiếp cận vị trí của mục tiêu trong cơ sở dữ liệu  Ở một vị trí định sẵn trên quỹ đạo đường bay, ngư lôi sẽ tự tách khỏi tên lửa và rơi xuống biển bằng dù hãm, việc này sẽ giúp giảm thiểu tối đa âm thanh khi rơi xuống nước. Sau khi cắt dù, ngư lôi tự kích hoạt bộ phận tự dẫn để thực hiện hoạt động tìm kiếm và tấn công mục tiêu. Điểm mạnh của tên lửa này là sử dụng tốc độ cao của tên lửa để nhanh chóng tiêu diệt tàu ngầm khi nó bị phát hiện. Type 07 VL ASROC thường sử dụng cơ chế bắn loạt nhiều tên lửa về phía khu vực có tàu ngầm nên xác suất tiêu diệt mục tiêu rất cao. Ngoài ra, nó cũng có khả năng tự hủy sau một thời gian nếu tìm không thấy mục tiêu.

  • Ống phóng tên lửa hành trình chống hạm SSM-1B Type 90.
  • JS Asuka (AE-6102) phóng thử nghiệm tên lửa chống ngầm Type 07, ngày 1 tháng 4 năm 2012.
  • Hệ thống ống phóng thẳng đứng (VLS) Mk-41 mod 29 của tàu JS Asahi (DD-119)
  • JS Fuyuzuki phóng tên lửa hải đối không RIM 162 ESSM